5 uẩn là gì?

0
531
5 uẩn là gì?

Mục lục bài viết

1. Uẩn là gì?

“Uẩn” (còn gọi là “uận”) là một thuật ngữ trong triết học phương Đông, đặc biệt là trong các trường phái triết học Ấn Độ như Hindu giáo, Phật giáo, và Sikh giáo, để chỉ các nguyên tắc, quy luật, hoặc nguyên nhân đằng sau sự tồn tại và hoạt động của thế giới vật chất và tâm hồn.

Theo các triết gia phương Đông, uẩn là một nguyên tắc hay quy luật toàn cầu điều chỉnh mọi hiện tượng và sự kiện trong vũ trụ, và nó ảnh hưởng đến cả cơ thể và tâm hồn của con người. Uẩn thường được coi là một cơ sở hay nguyên nhân cấp cao hơn, không phải là hiện tượng đơn lẻ mà là cơ sở của mọi hiện tượng.

Có nhiều quan niệm khác nhau về uẩn trong các trường phái triết học khác nhau. Ví dụ, trong Phật giáo, uẩn được hiểu là những nguyên tắc tổng quát của sự tồn tại và là nguyên nhân của sự khổ đau và gian truân, và việc thoát khỏi uẩn được coi là mục tiêu của sự giác ngộ. Trong Hindu giáo, uẩn có thể hiểu là Đại Lý (Brahman), nguyên nhân đằng sau sự tồn tại của vũ trụ và tất cả các hiện tượng trong nó.\

2. 5 uẩn nghĩa là gì?

“5 uẩn” hay còn gọi là Ngũ uẩn (zh. wǔyùn 五蘊, sa. pañca-skandha, pi. pañca-khandha, bo. phung po lnga ཕུང་པོ་ལྔ་), cũng gọi là Ngũ ấm (五陰), là năm (pañcanhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm. Ngoài ngũ uẩn đó ra không có gì gọi là cái “ta”.

Ngũ uẩn là:

  1. Sắc uẩn (zh. 色; sa., pi. rūpa), chỉ sự nhận biết mình có thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng (sa., pi. mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng. Cái biết của sắc uẩn gọi là sắc thức, là sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sắc thức phụ thuộc vào sáu căn tiếp xúc với sáu trần để hình thành nên sáu thức. (Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là sắc? Bị thay đổi, này các Tỷ-kheo, nên gọi là sắc. Bị thay đổi bởi cái gì? Bị thay đổi bởi lạnh, bị thay đổi bởi nóng, bị thay đổi bởi đói, bị thay đổi bởi khát, bị thay đổi bởi sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng và rắn. Bị thay đổi, này các Tỷ-kheo, nên gọi là sắc.)
  2. Thọ uẩn (zh. 受, sa., pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, cảm nhận sự thay đổi chung quanh, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính. (Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là thọ? Được cảm thọ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là thọ. Cảm thọ gì? Cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ phi khổ phi lạc. Được cảm thọ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là thọ.)
  3. Tưởng uẩn (zh. 想, sa. saṃjñā, pi. saññā) là nhận biết sự khác biệt, như là màu này khác màu kia, mùi này khác mùi kia…(Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là tưởng? Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng. Nhận rõ gì? Nhận rõ màu xanh, nhận rõ màu vàng, nhận rõ màu đỏ, nhận rõ màu trắng. Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng.)
  4. Hành uẩn (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), Hành là ý định, toan tính, suy tư, cân nhắc trước 1 quyết định. Hành bao gồm tất cả các chủ tâm trước khi một hành động được hình thành. Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác. (Gồm Thân hành, Khẩu hành, Ý hành) (Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là hành? Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi nên gọi là hành. Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi gì? Làm cho hiện hành sắc với sắc tánh, làm cho hiện hành thọ với thọ tánh, làm cho hiện hành tưởng với tưởng tánh, làm cho hiện hành các hành với hành tánh, làm cho hiện hành thức với thức tánh. Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi, này các Tỷ-kheo, nên gọi là các hành.)
  5. Thức uẩn (zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa) là sự nhận thức nhờ mặc định, mặc định cái này chua, mặc định cái kia đắng, mặc định cái nọ màu đỏ, mặc định cái kia nóng, cái này lợi, cái kia không lợi… Đây cũng là bước chuyển tiếp của tưởng uẩn và hành uẩn, từ sự cảm nhận sự khác biệt rồi suy tư cân nhắc xem mức độ khác biệt như thế nào, cho đến định nghĩa sự khác biệt bằng những danh từ hay tên gọi cho từng sự vật, sự việc, hiện tượng…(Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là thức? Rõ biết, này các Tỷ-kheo, nên gọi là thức. Rõ biết gì? Rõ biết chua, rõ biết đắng, rõ biết cay, rõ biết ngọt, rõ biết chất kiềm… rõ biết không phải chất kiềm, rõ biết mặn, rõ biết không mặn. Rõ biết, này các Tỷ-kheo, nên gọi là thức.)

Theo giáo lý Phật giáo, “5 uẩn” cùng với “uẩn con người” (Sanskrit: pudgala-skandha), tạo nên “uẩn không nhãn” (Sanskrit: nirātma-skandha), tức là sự không tồn tại của một thực thể độc lập, không thay đổi, vĩnh cửu hay vĩnh hằng gọi là “Ngã” (Sanskrit: anātman) trong Phật giáo.

Trích Wiki